Lịch sử Đảng_Dân_chủ_(Hoa_Kỳ)

Đảng Cộng hòa-Dân chủ: 1792 – 1824

Đảng Dân chủ có nguồn gốc từ đảng Cộng hòa–Dân chủ (Democratic-Republican) do Thomas Jefferson thành lập năm 1792. Dù vậy, một số học giả cho rằng đảng này ra đời vào năm 1828, những người ủng hộ Andrew Jackson, dưới sự lãnh đạo của Martin Van Buren, cùng các cựu thành viên đảng Liên bang (Federalist) tiến hành thành lập đảng Dân chủ. Sau khi đảng Liên bang tan rã vào khoảng năm 1816, đảng Cộng hòa Dân-chủ của Jefferson cũng bắt đầu giải thể. Hệ thống dành đặc quyền chọn ứng viên tổng thống cho một nhóm thiểu số tinh hoa của đảng chấm dứt sau năm 1816. Từ đó, đảng bớt xem trọng tính trung thành và báo chí cũng bớt giọng điệu đảng phái. Những thay đổi này dẫn đảng dần đến sự tan rã. Năm 1824, John Quincy Adams, Henry ClayAndrew Jackson, những ứng cử viên tổng thống hàng đầu của đảng Dân chủ-Cộng hòa mạnh mẽ kêu gọi giải thể đảng.

Dân chủ Jackson: 1828 – 1854

Andrew Jackson, Tổng thống Dân chủ đầu tiên của Hoa Kỳ (1829-1837)

Dưới sự hướng dẫn của nhà tổ chức tài ba Martin Van Buren, cả ba nhân vật này thành lập một chính đảng mới có địa bàn hoạt động trên toàn quốc, kết hợp với những hậu cứ vững chắc tại các tiểu bang, phối hợp với những thủ lĩnh chính trị địa phương tự xưng là "Người theo Jackson". Từ "Dân chủ" xuất hiện trong danh xưng của đảng khoảng năm 1834. Ảnh hưởng địa lý của đảng Dân chủ cũng tương tự như đảng Dân chủ-Cộng hòa (cả hai đều có nhiều ảnh hưởng ở Thành phố New York và tiểu bang Virginia, nhưng yếu thế tại vùng New England). Đảng cũ và đảng mới có cùng một thông điệp với nội dung chống thành phần thượng lưu, "giới cầm quyền" và đặt lòng tin vào "nhân dân".

Sự chống đối chủ yếu đến từ đảng Whig mới thành lập. Đảng này hình thành từ phe đối lập chống Jackson. Henry Clay là nhà lãnh đạo quan trọng nhất, nhưng ông này lại thất bại trước Jackson năm 1832. Đảng Dân chủ trong thập niên 1830 là một liên minh phức tạp cấu thành bởi nhiều nhân tố: nông dân trên mọi miền của nước Mỹ kết hợp với các nhóm công nhân sinh sống trong các đô thị. Những vấn đề chủ chốt trong thập niên này là sự bảo trợ, thuế quan và Ngân hàng Hoa Kỳ. Các vấn đề kinh tế như Ngân hàng Hoa Kỳ và thuế quan trở nên những điểm nóng từ năm 1828 đến năm 1850, cùng một số vấn đề khác như phân phối đất đai và mở rộng biên giới quốc gia. Nhưng đến thập niên 1850, những vấn đề này bị phủ bóng bởi những tranh luận về nạn nô lệ, tinh thần dân tộc và quyền của các tiểu bang, cuối cùng dẫn đến cuộc Nội chiến.

Grover Cleveland, đảng viên Dân chủ đầu tiên đắc cử tổng thống trong giai đoạn 1856-1912

Van Buren thắng cử năm 1836 nhưng bị đánh bại khi tái tranh cử năm 1840. James Polk dành thắng lợi năm 1844 và tiến hành cuộc chiến chống México, sau đó về hưu. Năm 1848 những người Dân chủ thuộc nhóm Free Soil tách khỏi đảng khiến Zachary Taylor, một anh hùng trong chiến tranh thuộc đảng Whig, dành chiến thắng. Đến phiên đảng Whig lại chia rẽ từ sau năm 1850, cống hiến cơ hội cho đảng Dân chủ chiếm ưu thế tại hầu hết các tiểu bang. Franklin Pierce đắc cử năm 1852. Thủ lĩnh tại Quốc hội Hoa Kỳ, Thượng nghị sĩ Stephen A. Douglas thúc đẩy thông qua đạo luật Kansas-Nebraska năm 1854 mặc dù có nhiều chống đối. Nhiều đảng viên Dân chủ (nhất là những người thuộc nhóm Free Soil từ năm 1848) gia nhập đảng Cộng hòa vừa mới thành lập. James Buchanan đắc cử năm 1856, nhưng chính sách của ông về tiểu bang Kansas đã khiến Douglas tức giận đến nỗi đã đem đảng đến bên bờ vực chia rẽ.

Nội chiến và Tái thiết

Trong thập niên 1850, tiếp theo sự phân rã của đảng Whig, đảng Dân chủ dần dà cũng bị chia cắt, với cánh miền Nam kiên quyết ủng hộ việc mở rộng chủ trương nô lệ vào những lãnh thổ mới, đối nghịch với chủ trương của đảng Cộng hòa vừa mới thành lập, tìm cách ngăn chặn sự mở rộng nô lệ vào vùng đất mới. Trong kỳ đại hội năm 1860 đề cử ứng viên tổng thống, xảy ra chia rẽ trong nội bộ đảng và những người ly khai quyết định tổ chức một đại hội cạnh tranh. Đảng viên dân chủ miền Bắc đề cử Stephen A. Douglas trong khi người miền Nam đề cử John Breckenridge cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1860. Kết quả cuộc bầu cử là chiến thắng thuộc về Abraham Lincoln thuộc đảng Cộng hòa, bảy tiểu bang miền Nam rút khỏi liên bang dẫn đến cuộc Nội chiến. Trong cuộc chiến, đảng viên Dân chủ miền Bắc chia thành hai phe, Dân chủ Chiến tranh, ủng hộ các chính sách quân sự của Tổng thống Lincoln, và nhóm Copperhead, mạnh mẽ chống đối.

Dù bị tan tác sau cuộc chiến, đảng Dân chủ hưởng lợi nhờ lòng phẫn uất của người miền Nam trong Thời kỳ Tái thiết, sau đó là thái độ thù nghịch của người dân trong vùng đối với đảng Cộng hòa. Khi Thời kỳ Tái thiết chấm dứt bởi Thoả hiệp năm 1877, và trong thập niên 1890 quyền bầu cử của người da đen bị tước bỏ, miền Nam suốt trong gần một thế kỷ luôn luôn bầu cho đảng Dân chủ. Ở hầu hết các bang miền Nam, trên thực tế hầu như chỉ có một đảng, và chiến thắng của đảng Dân chủ trong kỳ bầu cử sơ bộ là "tương đương với việc đắc cử". Trong thập niên 1880, trên bình diện quốc gia tình thế có vẻ cân bằng hơn. Mặc dù đảng Cộng hòa tiếp tục kiểm soát Tòa Bạch Ốc kể từ năm 1885, đảng Dân chủ vẫn duy trì được thế cạnh tranh, với hậu cứ vững chắc tại miền Nam và sức mạnh to lớn ở vùng nông thôn Tây bắc, các cộng đồng dân tộc ĐứcIreland sinh sống trong các đô thị, các thị trấn công nghiệp và những láng trại thuộc khu hầm mỏ ở vùng Đông Bắc. Trong suốt phần lớn quãng thời gian này, họ giành được quyền kiểm soát Hạ viện. Năm 1884, Grover Cleveland, thống đốc Dân chủ tiểu bang New York, người có khuynh hướng cải cách, đắc cử tổng thống và tái đắc cử năm 1892. Nhưng ông bị đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1888.

Giai đoạn 1896 – 1932

Woodrow Wilson, Tổng thống Dân chủ duy nhất trong giai đoạn 1892-1932

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1896, đảng viên Dân chủ ủng hộ nhóm Free Silver đánh bại phe bảo thủ trong đảng giành quyền đề cử William Jennings Bryan. Bryan, trong chiến dịch vận động, mạnh mẽ tấn công những quyền lợi tài chánh miền Đông, nhưng thất bại trước William McKinley trong cuộc bầu cử mang tính quyết định: đảng Cộng hòa chiếm giữ Tòa Bạch Ốc suốt 28 năm trong giai đoạn lịch sử kéo dài 36 năm (18961932). Đảng Cộng hòa kiểm soát phần lớn miền Đông Bắc, Tây Bắc và một nửa miền Tây. Bryan, được hậu thuẫn bởi những tiểu bang miền Nam và vùng đồng bằng, chỉ đủ mạnh để được đề cử ứng viên tổng thống năm 1900 (thua McKinley) và năm 1908 (thua Taft). Phe bảo thủ chống Bryan kiểm soát kỳ đại hội tổ chức năm 1904, nhưng lại đối diện với sức mạnh áp đảo của Theodore Roosevelt. Bryan từ bỏ nhóm Free Silver và luận điệu chống đế quốc để quay sang ủng hộ trào lưu tiến bộ đang thịnh hành. Năm 1912, Bryan ủng hộ Woodrow Wilson và được thưởng công bằng chiếc ghế bộ trưởng ngoại giao, nhưng sau đó, năm 1916, ông từ chức để phản đối chính sách diều hâu (non-pacifistic) của Wilson.

Tận dụng tình trạng phân hóa bên trong đảng Cộng hòa, năm 1910 những người Dân chủ giành quyền kiểm soát Hạ viện, và giúp đưa một nhà trí thức có khuynh hướng cải cách, Woodrow Wilson, nắm giữ chức tổng thống từ năm 1912 đến năm 1916. Wilson đã thành công trong nỗ lực thuyết phục Quốc hội thông qua một loạt các đạo luật tiến bộ (progressive) như cắt giảm thuế quan, nâng cao hiệu lực các đạo luật chống độc quyền (antitrust), Hệ thống Dự trữ Liên bang, chi trả phúc lợi cho công nhân đường sắt và cấm lao động trẻ em (bị đảo ngược bởi Tối cao Pháp viện). Thêm vào đó, các tu chính hiến pháp dành quyền bầu cử cho phụ nữ và cấm rượu mạnh cũng được thông qua trong nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống. Wilson đã lãnh đạo Hoa Kỳ đến chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, giúp soạn thảo Hòa ước Versailles, trong đó có việc thành lập Hội Quốc Liên. Nhưng từ năm 1919, giống tình trạng sức khoẻ của ông, kỹ năng chính trị của Wilson bắt đầu suy yếu, và mọi việc đột nhiên trở nên tồi tệ. Thượng viện bác bỏ hòa ước Versailles cũng như Hội Quốc Liên, làn sóng đình công và bạo động nổ ra trên toàn quốc gây ra tình trạng bất ổn. Năm 1924 tại Đại hội Toàn quốc đảng Dân chủ, một nghị quyết phản đối nhóm Ku Klux Klan (một tổ chức chủ trương kỳ thị chủng tộc) được giới thiệu như là một bản tu chính nghị quyết nhằm kết án các định kiến xã hội và các nhóm thù hận. Đây là một phép thử quyền lực mà Al Smith và Oscar W. Underwood dùng để thách thức sự đề cử dành cho William McAdoo. Sau nhiều tranh luận, nghị quyết bị đánh bại vì thiếu chỉ một phiếu, nhưng McAdoo cũng không thể giành được sự đề cử vì thiếu đa số hai phần ba theo quy định. Đảng Dân chủ bị phân hóa trầm trọng và bị đánh bại bởi đảng Cộng hòa trong những chiến thắng áp đảo vào các năm 1920, 19241928. Tuy nhiên, năm 1928 Al Smith đã kịp xây dựng một hậu cứ vững chắc trong vòng những cộng đồng Công giáo sinh sống tại các thành phố lớn, cùng lúc sự kiện Franklin D. Roosevelt đắc cử Thống đốc tiểu bang New York đã mang nhà lãnh đạo mới xuất hiện này vào tâm điểm của sân khấu chính trị Hoa Kỳ.

New Deal

Tổng thống Franklin D. Roosevelt (1933-1945)

Cuộc Đại Suy thoái (Great Depression) dọn đường cho một chính phủ có khuynh hướng tự do, và Franklin D. Roosevelt, với chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử năm 1932, đã tiến vào Tòa Bạch Ốc, dù thông điệp tranh cử của ông không rõ ràng với những lời hứa phục hồi luật cấm rượu và những chỉ trích nhắm vào những thất bại của Herbert Hoover. Trong lễ nhậm chức ngày 4 tháng 3 năm 1933, Roosevelt đưa ra một loạt các chương trình hành động được biết dưới tên New Deal, tập chú vào hoạt động cứu trợ, phục hồi và cải cách (relief, recovery, reform). Đó là cứu trợ dành cho đạo quân thất nghiệp và vùng nông thôn đang suy kiệt, phục hồi kinh tế, và các cải cách dài hạn nhằm ngăn cản suy thoái quay trở lại. Cuộc bầu cử năm 1932 mang đến cho đảng Dân chủ một đa số lớn tại cả hai viện của Quốc hội cũng như các ghế thống đốc tiểu bang; cuộc bầu cử năm 1934 làm gia tăng thêm khoảng cách. Những chương trình ban hành năm 1933, thường được các sử gia gọi là New Deal thứ nhất, giành được sự đồng thuận rộng rãi; Roosevelt cố gắng tiếp xúc với giới doanh nghiệp, công đoàn, nông gia và người tiêu dùng, ở thành thị lẫn nông thôn. Dù vậy, đến năm 1934, ông bắt đầu hướng đến chính sách mang nhiều tính đối đầu hơn. Roosevelt tìm cách tách rời đảng khỏi chủ nghĩa tư bản trọng thương (laissez-fair capitalism) mà hướng về một hệ tư tưởng tập chú vào quy hoạch kinh tế và vào việc bảo hiểm cho những rủi ro. Hai từ cũ mang lấy ý nghĩa mới. Nay "tự do" nghĩa là ủng hộ New Deal, còn "bảo thủ" là chống New Deal. Các đảng viên Dân chủ bảo thủ nổi giận, dưới sự lãnh đạo của Al Smith, thành lập Liên minh Tự do Mỹ năm 1934 và tổ chức phản công, nhưng nỗ lực của họ không hiệu quả.

Sau khi kiểm soát Quốc hội năm 1934, Roosevelt bắt tay vào một chương trình lập pháp đầy tham vọng gọi là "New Deal thứ hai", với những mục tiêu như xây dựng các nghiệp đoàn lao động, quốc hữu hóa hệ thống phúc lợi qua Cơ quan Cải thiện Việc làm (Works Progress Administration), thiết lập an sinh xã hội, áp đặt nhiều quy định hơn trên doanh nghiệp (nhất là trong lĩnh vực giao thông và truyền thông), tăng thuế lợi tức doanh nghiệp. Ông xây dựng một liên minh mới, đa số và đa dạng, gọi là Liên minh New Deal, gồm có các nghiệp đoàn lao động, thành phần thiểu số (quan trọng nhất là người Công giáo, Do Thái, và lần đầu tiên, người da đen). Liên minh New Deal chiến thắng trong tất cả cuộc bầu cử tổng thống ngoại trừ hai lần (năm 19521956) cho đến khi bị tan rã trong năm 1968.

Sau chiến thắng vang dội trong lần tái tranh cử năm 1936, Roosevelt công bố kế hoạch mở rộng Tối cao Pháp viện, lâu nay thiết chế này vẫn có khuynh hướng chống kế hoạch New Deal của ông. Bùng nổ một cơn bão lửa từ những người chống đối, do chính phó tổng thống của ông, John Nance Garner, dẫn đầu. Roosevelt bị đánh bại bởi một liên minh giữa những người Cộng hòa với cánh bảo thủ của đảng Dân chủ. Họ thành lập một liên minh bảo thủ mới và cố phong toả những đạo luật có khuynh hướng tự do cũng như kiểm soát Quốc hội trong suốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ tổng thống. Bị de doạ bởi cánh bảo thủ trong đảng, Roosevelt tìm cách loại bỏ họ; năm 1938, ông vận động chống lại năm thượng nghị sĩ Dân chủ có khuynh hướng bảo thủ. Họ bác bỏ chủ trương liên bang can thiệp vào các vấn đề của tiểu bang, và cả năm nghị sĩ này đều dành thắng lợi trong lần tái tranh cử.

Chủ trương tự do New Deal là ủng hộ phát triển phúc lợi xã hội, nghiệp đoàn lao động, dân quyền và áp đặt thêm luật lệ cho doanh nghiệp. Những người chống đối nhấn mạnh đến sự tăng trưởng lâu dài, ủng hộ doanh nghiệp và cắt giảm thuế, nay khởi sự tự gọi mình là "bảo thủ".

Từ Truman đến Kennedy: 1945 – 1963

Tổng thống Harry S. Truman (1945-1953)

Ngày 12 tháng 4 năm 1945, Roosevelt từ trần khi đương chức, Harry S. Truman kế nhiệm ông. Sự rạn nứt bên trong đảng mà Roosevelt cố che lấp bắt đầu xuất hiện. Cựu Phó Tổng thống Henry A. Wallace mô tả Truman là kẻ thủ lợi nhờ chiến tranh vì những chương trình chống Liên Xô của ông, Wallace cũng chỉ trích Chủ thuyết Truman, Kế hoạch MarshallNATO. Tuy nhiên, phe ủng hộ Wallace bị loại khỏi đảng và tổ chức nghiệp đoàn trong những năm 1946-1948 bởi những đảng viên trẻ tuổi như Hubert H. Humphrey, Walter Reuther và Arthur Schlesinger Jr.. Mặt khác, mũi tấn công của Đảng Cộng hòa nhắm vào chính sách đối nội của Truman. "Đủ chưa?" và "Lầm lẫn là Truman" là những câu khẩu hiệu được ưa chuộng của người Cộng hòa, và họ nắm quyền kiểm soát Quốc hội vào năm 1946, lần đầu tiên kể từ năm 1928.

Nhiều lãnh tụ đảng đã sẵn sàng để đánh đổ Truman, nhưng chưa có cơ hội. Truman phản công, loại trừ Strom Thurmond cùng cánh da trắng miền Nam (Dixiecrat), và tiến hành một động thái chiến lược táo bạo bằng cách triệu tập một phiên họp đặc biệt tại Quốc hội dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng hòa, trình những dự luật mà ông biết chắc là họ sẽ bác bỏ, để rồi khi tình thế trở nên bế tắc, ông tổ chức một chuỗi các cuộc vận động liên hoàn trên toàn quốc để cáo buộc họ là Quốc hội khoá thứ 80 "Không chịu làm gì". Trong một cuộc bầu cử có lẽ là đáng kinh ngạc nhất trong thế kỷ XX, năm 1948 Truman đánh bại Thomas Dewey để tái đắc cử, đồng thời Đảng Dân chủ giành lại quyền kiểm soát Quốc hội. Dù vậy, những đề án Fair Deal của Truman như kế hoạch chăm sóc sức khoẻ cho mọi người, bị đánh bại bởi liên minh bảo thủ ở quốc hội.

Năm 1952, Dwight D. Eisenhower chiếm lại Tòa Bạch Ốc cho đảng Cộng hòa sau khi đánh bại thống đốc bang Illinois Adlai Stevenson. Bốn năm sau, Eisenhower lặp lại chiến thắng trước Stevenson. Trong quốc hội, bộ đôi gốc Texas, Chủ tịch Hạ viện Sam Rayburn và lãnh tụ phe đa số Thượng viện Lyndon B. Johnson, cùng nhau cầm giữ đảng dưới bóng của vị anh hùng thời chiến tranh, Eisenhower.

Tổng thống John F. Kennedy (1961-1963)

Thượng nghị sĩ John F. Kennedy thành công trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960, đánh bại phó tổng thống đương chức Richard Nixon. Dù nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy kéo dài chỉ một ngàn ngày, ông đã cố kiềm chế ảnh hưởng của những người cộng sản sau khi chịu thất bại trong cuộc xâm lăng Vịnh con HeoCuba và việc xây dựng Bức tường Bá Lâm, và gởi 16.000 binh sĩ đến Việt Nam. Kennedy thách thức người dân Mỹ tiến vào cuộc Chạy đua vào Không gian để đặt một người Mỹ lên Mặt Trăng trong năm 1969. Sau vụ Khủng hoảng Hoả tiễn Cuba, ông nỗ lực làm dịu tình hình căng thẳng với Liên Xô. Kennedy thúc đẩy dân quyền và tinh thần hòa hợp chủng tộc, ra lệnh điều động vệ binh liên bang bảo vệ những người tuần hành vì tự do ở miền nam. Tổng thống Kennedy bị ám sát ngày 22 tháng 11 năm 1963 tại Dallas, tiểu bang Texas. Ngay sau đó Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ. Johnson, người kế thừa chính sách New Deal, phá vỡ ảnh hưởng của liên minh bảo thủ ở Quốc hội, thông qua con số đáng kể các đạo luật có khuynh hướng tự do, được biết dưới tên Great Society. Johnson thành công trong nỗ lực tìm kiếm sự phê chuẩn cho các đạo luật bảo vệ dân quyền và khởi sự chính sách hòa hợp chủng tộc ở miền nam. Cùng lúc, Johnson leo thang chiến tranh ở Việt Nam, dẫn đến những xung đột nội bộ trong đảng và làm đảng phân hóa trong cuộc tuyển cử năm 1968.

Phong trào Dân quyền: 1963 – 1969

Tổng thống Lyndon B. Johnson (1963-1969)

Người Mỹ gốc Phi, vẫn có truyền thống ủng hộ Đảng Cộng hòa kể từ cuộc Nội chiến, trong thập niên 1930 chuyển sang Đảng Dân chủ, phần lớn là do các chương trình cứu tế của New Deal, và nhiệt huyết đấu tranh cho dân quyền của Đệ Nhất Phu nhân Eleanor Roosevelt. Trong nhiều thành phố như Chicago, toàn bộ guồng máy Cộng hòa trong những khu dân cư da đen đổi đảng hầu như chỉ trong một đêm. Dù vậy, đến cuối thập niên 1960, liên minh New Deal bắt đầu rạn nứt khi ngày càng có nhiều lãnh tụ đảng Dân chủ lên tiếng ủng hộ dân quyền song lại thiết lập hậu cứ truyền thống cho đảng trong vòng phe Dân chủ miền nam và những nhóm Công giáo dựa theo chủng tộc ở các thành phố phương bắc.

Giai đoạn chuyển đổi: 1969 – 1993

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1972, Đảng Dân chủ đề cử Thượng nghị sĩ George McGovern với câu khẩu hiệu chống chiến tranh của ông "Hỡi người Mỹ, hãy về nhà". McGovern chủ trương triệt thoái lập tức khỏi Việt Nam và bảo đảm lợi tức tối thiểu cho mọi người dân Mỹ. Trong khi McGovern cố vận động chống các chính sách của Nixon thì những tiết lộ về người đứng cùng liên danh với ông, Thomas Eagleton (từng được điều trị bằng liệu pháp shock điện), trở thành tai họa cho hình ảnh của McGovern. Sargent Shriver, một đồng minh của Daley, được chấp nhận để trở nên ứng viên phó tổng thống. Cuộc tổng tuyển cử là một chiến thắng áp đảo cho Richard Nixon khi McGovern chỉ giành được mỗi một bang Massachussetts. Nhưng Đảng Dân chủ vẫn duy trì được thế đa số ở Quốc hội và tại hầu hết viện lập pháp các tiểu bang.

Tổng thống Jimmy Carter (1977-1981)

Vụ tai tiếng Watergate đã huỷ diệt sự nghiệp chính trị của Nixon và cho những người Dân chủ chút ít hi vọng. Khi Tổng thống Gerald Ford ân xá Nixon sau khi ông này từ chức năm 1974, đảng Dân chủ có cơ hội làm lớn chuyện "thối nát" và giành thắng lợi trong cuộc bầu cử bất thường. Cuộc bầu cử năm 1976 chứng kiến thành công bất ngờ của Thống đốc tiểu bang Georgia, Jimmy Carter, một người bên ngoài ít tiếng tăm nhưng hứa hẹn một tính cách chân thật.

Trong số những thành quả quan trọng của Tổng thống Carter có việc thiết kế chính sách năng lượng quốc gia, và củng cố các cơ quan chính quyền, dẫn đến việc thành lập hai bộ mới, Bộ Năng lượng Hoa KỳBộ Giáo dục Hoa Kỳ. Carter dẫn đầu những nỗ lực lưỡng đảng nhằm điều chỉnh các ngành công nghiệp vận tải đường bộ, hàng không, hỏa xa, tài chính, truyền thôngdầu mỏ. Ông hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội, và bổ nhiệm con số kỷ lục phụ nữ và thành phần thiểu số vào các vị trí công quyền và các chức vụ tư pháp. Carter vận động thông qua các đạo luật bảo vệ môi trường và mở rộng Dịch vụ Công viên Quốc gia ở Alaska, thêm 103 triệu mẫu Anh vào thẩm quyền quản lý của liên bang. Về ngoại giao, những thành tựu của Carter là Hiệp ước Trại David, Hiệp ước Kênh đào Panama, thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và đàm phán Hòa ước SALT II với Liên Xô. Bên cạnh đó, ông đấu tranh cho nhân quyền trên khắp thế giới và xem nhân quyền là trọng tâm của chính sách đối ngoại.

Mặc dù những thành quả ấy, Carter thất bại trong nỗ lực thực thi kế hoạch y tế quốc gia và cải cách hệ thống thuế như ông đã hứa khi ra tranh cử. Lạm phát tăng cao. Bên ngoài là vụ khủng hoảng con tin ở Iran (4 tháng 11 năm 197920 tháng 1 năm 1981), 52 người Mỹ bị bắt giữ làm con tin trong 444 ngày, cùng những thất bại trong ngoại giao và quân sự nhằm giải cứu con tin. Sự kiện quân đội Liên Xô chiếm đóng Afghanistan làm suy yếu hình ảnh của Carter đối với người dân Mỹ. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1980, Carter đánh bại Ted Kennedy để giành sự đề cử của đảng nhưng lại thất bại trước Ronald Reagan. Đảng Dân chủ mất 12 ghế ở Thượng viện, như thế lần đầu tiên kể từ năm 1954, Đảng Cộng hòa nắm quyền kiểm soát Thượng viện. Song Đảng Dân chủ vẫn duy trì thế đa số ở Hạ viện. Dù đã thất bại trong cuộc tuyển cử, Carter vẫn tiếp tục đàm phán tìm kiếm sự phóng thích cho các con tin cho đến phút cuối của nhiệm kỳ.

Nhân tố đóng góp cho thành công của Ronald Reagan thuộc đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 1980 là những người Dân chủ ủng hộ chính sách bảo thủ. Những "người Dân chủ Reagan" này là thành viên Đảng Dân chủ trước và sau nhiệm kỳ của Reagan. Hầu hết là người da trắng ở vùng Đông Bắc và Trung Tây thu hút bởi chủ trương của Reagan, bảo thủ trong nước và diều hâu ở nước ngoài. Reagan chiếm phiếu ở 49 tiểu bang, đánh bại cựu Phó Tổng thống Walter Mondale, một người ủng hộ New Deal, trong cuộc bầu cử năm 1984. Trong cuộc bầu cử năm 1988, Thống đốc tiểu bang Massachussetts, Michael Dukakis, một chuyên gia về hành chính công, thất bại trước Phó Tổng thống George H. W. Bush.

Thời kỳ Clinton: 1993 – 2001

Tổng thống Bill Clinton (1993-2001)

Năm 1992, lần đầu tiên trong 12 năm, cử tri Mỹ chọn một chính trị gia Dân chủ để đặt vào Tòa Bạch Ốc. Tổng thống Bill Clinton đã cân bằng ngân sách liên bang lần đầu tiên kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy và giúp kinh tế Mỹ phát triển mạnh cũng như gia tăng lợi tức ở nước ngoài. Năm 1994 chứng kiến mức lạm phát và thất nghiệp được kéo xuống đến mức thấp nhất trong 25 năm. Tổng thống ký ban hành luật Brady, ấn định thời gian chờ đợi năm ngày trước khi mua súng ngắn, và ban hành luật cấm nhiều loại vũ khí bán tự động (luật này đã hết hạn năm 2004). Đạo luật Nghỉ phép Y tế và Gia đình của ông có ảnh hưởng trên 40 triệu người Mỹ, cho họ quyền nghỉ phép có lương và bảo đảm việc làm trong trường hợp nghỉ hộ sản, bệnh tật cá nhân và gia đình. Clinton giúp phục hồi dân chủ ở Haiti, gây áp lực lên các vòng đàm phán hòa bình Palestine-Israel, làm trung gian cho cuộc ngừng bắn lịch sử ở Bắc Ireland, và thương thuyết Hòa ước Dayton, giúp kết thúc bốn năm khủng bố và tàn sát ở vùng đất Nam Tư cũ. Năm 1996, Clinton đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, lần đầu tiên kể từ Franklin D. Roosevelt (năm 1944), một tổng thống Dân chủ được tín nhiệm trong hai nhiệm kỳ liên tiếp.

Tuy nhiên, năm 1994, Đảng Dân chủ mất thế đa số tại cả hai viện của Quốc hội. Clinton phủ quyết những dự luật cải cách phúc lợi được Đảng Cộng hòa ủng hộ trước khi chịu ký ban hành dự luật thứ ba, Đạo luật Cơ hội Việc làm và Trách nhiệm Cá nhân trong năm 1996. Clinton thông qua Thoả ước Tự do Mậu dịch Bắc Mỹ (NAFTA) với CanadaMéxico mặc cho những chống đối dữ dội từ các nghiệp đoàn lao động và sự thất vọng của cánh tả trong đảng.

Giai đoạn 2001 – 2009

Bầu cử Tổng thống năm 2000

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, đảng Dân chủ chọn Phó Tổng thống Al Gore làm ứng viên cho chức vụ tổng thống. Gore và George W. Bush, ứng viên đảng Cộng hòa và là con trai của một cựu tổng thống, bất đồng với nhau về một số vấn đề như phá thai, chính trị vũ khí, môi trường, quyền của người đồng tính, cắt giảm thuế, chính sách ngoại giao, giáo dục công lập, tình trạng nóng ấm toàn cầu, bổ nhiệm thẩm phán và chính sách ưu đãi các nhóm thiểu số (affirmative action). Tuy nhiên, mối quan hệ thân thiết của Gore với Clinton và DLC khiến một số người chỉ trích như ứng cử viên Đảng Xanh, Raph Nader, khẳng định rằng Bush và Gore chẳng khác gì nhau, nhất là về chủ trương tự do thương mại và cắt giảm phúc lợi xã hội. Một phụ tá của Nader giải thích lý do Nader ra tranh cử "là vì chúng tôi muốn trừng phạt đảng Dân chủ, chúng tôi muốn họ bị tổn thương."

Gore giành được 500.000 phiếu phổ thông nhiều hơn Bush, nhưng thua bốn phiếu của Cử tri đoàn. Nhiều người cho rằng sự thất bại này là do Gore mất phiếu cho đảng thứ ba của Nader.

Dù vậy, Đảng Dân chủ được thêm năm ghế ở Thượng viện (kể cả thắng lợi của Hillary Rodham Clinton ở New York) để biến tỷ lệ 55-45 nghiêng về đảng Cộng hòa trở nên tỷ lệ 50-50 (không kể phiếu của phó tổng thống hầu có thể phá vỡ thế bế tắc). Thế nhưng, khi Thượng nghị sĩ Cộng hòa Jim Jeffords của Vermont quyết định trở nên thành viên độc lập và bầu phiếu cho phe Dân chủ ở Thượng viện, thế đa số ngả về đảng Dân chủ với quyền kiểm soát Thượng viện dành cho lãnh tụ phe đa số và chủ tịch các uỷ ban. Dù vậy, đảng Cộng hòa chiếm lại thế đa số ở Thượng viện do những thắng lợi trong năm 2002 và 2004, chỉ để lại 44 ghế cho các nghị sĩ Dân chủ, số ghế ít nhất kể từ thập niên 1920.

Sau vụ tấn công 11 tháng 9 năm 2001, cả nước chuyển sự quan tâm sang các vấn đề an ninh quốc gia. Tất cả nghị sĩ Dân chủ, ngoại trừ Dân biểu Barbara Lee, đồng thuận với các đồng sự Cộng hòa trao quyền cho Tổng thống Bush cho tiến quân vào Afghanistan. Lãnh tụ Hạ viện, Richard Gephardt, và lãnh tụ Thượng viện, Thomas Daschle, thúc đẩy các đảng viên Dân chủ bỏ phiếu cho đạo luật PATRIOT và cuộc xâm lăng Iraq. Có sự phân hóa trong đảng Dân chủ khi quân đội Hoa Kỳ tiến vào Iraq năm 2003, ngày càng có nhiều người bày tỏ sự lo ngại về cả chính nghĩa lẫn sự tiến triển của Cuộc chiến chống Khủng bố cùng những ảnh hưởng trong nước, kể cả hiểm họa đối với dân quyền và quyền tự do dân sự đến từ đạo luật PATRIOT. Thượng nghị sĩ Russ Feingold là người duy nhất bỏ phiếu chống lại đạo luật; đạo luật này gặp phải sự chống đối đáng kể khi gia hạn.

Bầu cử tổng thống năm 2004

Chiến dịch tranh cử năm 2004 khởi sự vào đầu tháng 12 năm 2002, khi Gore tuyên bố ra tranh cử trong cuộc bầu cử năm 2004. Howard Dean, cựu Thống đống tiểu bang Vermont, một người chủ trương chống chiến tranh và thường chỉ trích cơ chế hiện hành của đảng Dân chủ, dẫn đầu trong các cuộc bầu cử sơ bộ. Dean có hậu thuẫn vững chắc, đặc biệt là từ cánh tả trong đảng. Thượng nghị sĩ đại diện tiểu bang Massachusetts John Kerry, một nhân vật chủ trương trung dung tìm được sự ủng hộ của Hội đồng Lãnh đạo Dân chủ, cuối cùng được đề cử bởi vì nhiều người xem ông là có nhiều triển vọng hơn Dean.

Số lượng công nhân Mỹ bị sa thải trong các ngành công nghiệp ngày càng tăng cao do các hãng xưởng được chuyển ra nước ngoài khiến một số đảng viên Dân chủ (trong đó có Dean và ứng viên vào thượng viện của tiểu bang North Carolina Erskine Bowles) bắt đầu xét lại quan điểm của họ về tự do mậu dịch. Trong năm 2004, sự thất bại của chính phủ Bush trong việc tìm kiếm vũ khí huỷ diệt hàng loạt ở Iraq, số thương vong tăng cao, và không thấy điểm dừng cho cuộc chiến chống Iraq trở nên những điểm nóng tại các cuộc tranh luận trong cuộc bầu cử. Chiến lược vận động của đảng Dân chủ nhắm vào sự phục hồi kinh tế mà không gia tăng việc làm, giải quyết cuộc khủng hoảng Iraq, và giải quyết nạn khủng bố cách hiệu quả hơn.

Kết quả là Kerry thua cuộc cả trong số phiếu phổ thông lẫn phiếu của cử tri đoàn. Đảng Cộng hòa dành thêm bốn ghế trong thượng viện và thêm ba ghế ở Viện Dân biểu (Hạ viện). Tệ hại hơn, lần đầu tiên kể từ năm 1952, lãnh tụ đảng Dân chủ tại Thượng viện bị thất cử. Tổng cộng có 3.660 đảng viên Dân chủ đắc cử vào các viện lập pháp tiểu bang trên toàn quốc, con số này của Đảng Cộng hòa là 3.557. Các đảng viên Dân chủ nắm giữ chức thống đốc tại các bang Louisiana, New HampshireMontana, nhưng lại mất chức thống đốc tiểu bang Missouri và thế đa số ở viện lập pháp tiểu bang Georgia - hai nơi này lâu nay vẫn là thành trì của đảng Dân chủ.

Có nhiều lý do giải thích sự thất bại này. Sau cuộc bầu cử, hầu hết các nhà phân tích cho rằng Kerry thiếu khả năng trong vận động tranh cử. Một nhóm cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam làm hỏng kế hoạch sử dụng thành tích chiến đấu của Kerry như là một thế mạnh trong vận động tranh cử, và sự mâu thuẫn trong lập trường của Kerry về cuộc chiến Iraq. Đảng Cộng hòa cho chiếu hàng ngàn quảng cáo trên truyền hình nhằm thuyết phục cử tri rằng Kerry không có lập trường nhất quán về Iraq. Những sai sót trong hệ thống kiểm phiếu có thể là một trong những nhân tố dẫn đến sự thất bại của Kerry. Thượng nghị sĩ Barbara Box đại diện bang California và một vài Dân biểu Dân chủ đưa vấn đề về những bất thường trong cuộc bầu cử ra kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá 109 nhưng bị đánh bại ở Hạ viện với số phiếu 267-31 và 74-1 tại Thượng viện. Các nhân tố khác nên được kể đến là tình trạng lành mạnh của thị trường việc làm, thị trường chứng khoán có chiều hướng tốt, số nhà bán gia tăng và tỷ lệ thất nghiệp thấp.

Ngày nay

Sau hai thất bại liên tiếp trong năm 2000 và 2004, nhiều đảng viên Dân chủ bộc lộ sự lo ngại về tương lai của đảng. Giới lãnh đạo bắt đầu xét lại hướng đi của đảng và nhiều sách lược được đưa ra. Nhiều người muốn đảng ngả về phía hữu với hi vọng dành thêm ghế ở lưỡng viện và có cơ may chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008; những người khác cho rằng đảng cần hướng về phía tả để trở thành một đảng đối lập có thực lực.

Những tranh luận này được thể hiện trong chiến dịch năm 2005 tranh chức Chủ tịch Uỷ ban Dân chủ Quốc gia, cuối cùng Howard Dean là người thắng thế. Dean tìm cách đem đảng tách khỏi cơ chế hiện hành và ủng hộ các đảng bộ tiểu bang và các chi bộ địa phương.

Khi Quốc hội khoá 109 được triệu tập, các thượng nghị sĩ Dân chủ chọn Harry Reid (bang Nevada) làm lãnh tụ phe thiểu số và Richard Durbin làm phụ tá cho Reid. Năm 2005, đảng Dân chủ giành lại chức thống đốc tại các bang VirginiaNew Jersey nhưng lại thua trong cuộc đua tranh chức thị trưởng Thành phố New York, một thành trì của đảng Dân chủ, trong bốn lần liên tiếp.

Những cuộc thăm dò trong năm 2006 cho thấy triển vọng lại bừng sáng cho đảng Dân chủ, chủ yếu là do những sai lầm và tai tiếng của đảng Cộng hòa. Những vụ tai tiếng liên quan đến nhà vận động hành lang Jack Abramoff, cựu lãnh tụ phe đa số Hạ viện Tom DeLay, và thống đốc tiểu bang Ohio, Bob Taft, cho đảng Dân chủ cơ hội khai thác vấn đề tình trạng thối nát trong chính trường. Phản ứng chậm trễ của Bush khi xảy ra thảm họa Bão Katrina xem ra sẽ là một vấn đề được đưa ra trong chiến dịch vận động nhằm nhấn mạnh tính thiếu hiệu năng của chính phủ. Dư luận quần chúng về chiến sự ở Iraq ngày càng trở nên tiêu cực và cảm giác đang lan tỏa trong vòng những người bảo thủ, cho rằng chính phủ Cộng hòa không có khả năng kiểm soát chi tiêu của chính phủ đang kéo sự ủng hộ dành cho Tổng thống Bush xuống mức thấp nhất kể từ khi ông đặt chân vào Tòa Bạch Ốc. Với hàng loạt vụ bê bối trong đảng Cộng hòa được phanh ra trước cuộc tổng tuyển cử như vụ Mark Foley, quyền kiểm soát Quốc hội dường như nằm trong tầm tay của đảng Dân chủ.

Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2006, đảng Dân chủ giành lại quyền kiểm soát Quốc hội và chiếm đa số ghế thống đốc tiểu bang. Trong Viện Dân biểu, họ chiếm đủ số ghế để giành đa số, và dân biểu Nancy Pelosinữ chính khách đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ được chọn vào chức vụ Chủ tịch Viện Dân biểu. Trong Thượng nghị viện, họ lật đổ 6 ghế đang được giữ bởi đảng Cộng hòa để chiếm được 51 ghế. Như vậy, kể từ đầu năm 2007, Đảng Dân chủ trở thành đảng đa số, năm quyền kiểm soát tại lưỡng viện Quốc hội.

Thời kỳ Obama: 2009 – 2017

Tổng thống Barack Obama (2009-2017)

Đảng Dân chủ chính thức đề cử Barack Obama tại Đại hội Đảng Dân chủ Toàn quốc tại Denver, Colorado vào ngày 25 đến 28 tháng 8.[53][54] Đến ngày 3 tháng 6, Barack Obama đã nhận đủ phiếu ủng hộ để được đảng Dân chủ đề cử.[55] Đối thủ cuối cùng của ông, Hillary Clinton, rút lui sau đó vào ngày 7 tháng 6.

Lúc đó, Barack Obama là Thượng nghị sĩ trong nhiệm kỳ đầu tiên từ Illinois. Ông được bầu vào chức vụ này từ năm 2004. Khi được đề cử, ông trở thành ứng cử viên người Mỹ gốc Phi đầu tiên được một trong hai đảng lớn đề cử cho chức vụ tổng thống.

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, Barack Obama đối đầu với ứng cử viên Cộng hòa là John McCain. Barack Obama giành 53% phiếu phổ thông và 365 phiếu đại cử tri đoàn, trở thành tổng thống người Mỹ gốc Phi đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ.

Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, Barack Obama đối đầu với ứng cử viên Cộng hòa là Mitt Romney. Barack Obama giành 51% phiếu phổ thông và 332 phiếu đại cử tri đoàn, tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đảng_Dân_chủ_(Hoa_Kỳ) http://economics.about.com/od/monetaryandfiscalpol... http://www.boston.com/news/globe/ideas/articles/20... http://www.britannica.com/eb/article-9029899/Democ... http://blog.cleveland.com/openers/2007/12/dems_in_... http://www.cnn.com/2008/POLITICS/06/03/election.de... http://www.cnn.com/ELECTION/2000/results/index.epo... http://www.cnn.com/ELECTION/2004/pages/results/sta... http://www.cnn.com/ELECTION/2006/pages/results/sta... http://www.collegedems.com/ http://www.demconvention.com/